Văn hóa dân tộc – Tamnhindoanhnhan.com https://tamnhindoanhnhan.com Nơi hội tụ giá trị – bản lĩnh – tầm nhìn dẫn đầu. Nơi chia sẻ tri thức, chiến lược kinh doanh, tư duy lãnh đạo, đổi mới sáng tạo và phong cách sống doanh nhân. Wed, 01 Oct 2025 22:26:54 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/tamnhindoanhnhan.svg Văn hóa dân tộc – Tamnhindoanhnhan.com https://tamnhindoanhnhan.com 32 32 Khu du lịch Pù Luông – Điểm đến sinh thái hấp dẫn với trải nghiệm thiên nhiên và văn hóa độc đáo https://tamnhindoanhnhan.com/khu-du-lich-pu-luong-diem-den-sinh-thai-hap-dan-voi-trai-nghiem-thien-nhien-va-van-hoa-doc-dao/ Wed, 01 Oct 2025 22:26:52 +0000 https://tamnhindoanhnhan.com/khu-du-lich-pu-luong-diem-den-sinh-thai-hap-dan-voi-trai-nghiem-thien-nhien-va-van-hoa-doc-dao/

Khu du lịch sinh thái cộng đồng Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa, đang nổi lên như một điểm đến lý tưởng cho những du khách yêu thích thiên nhiên và mong muốn trải nghiệm cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ và nét mộc mạc, thanh bình của bản làng, Pù Luông đang ngày càng thu hút du khách.

Từ khi Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông được thành lập, nhiều giải pháp bảo vệ rừng gắn với phát triển đời sống và nâng cao thu nhập cho người dân đã được triển khai. Trong đó, việc quy hoạch và phát triển du lịch sinh thái, cộng đồng đã được tập trung đầu tư. Nhiều nguồn lực đã được huy động hiệu quả cho công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và xây dựng nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch tại Pù Luông.

“Ngày hội” đồng hành cùng con trẻ
“Ngày hội” đồng hành cùng con trẻ

Hiện nay, Pù Luông cung cấp nhiều sản phẩm du lịch phong phú và đa dạng, nâng cao chất lượng theo hướng chuyên nghiệp, nghỉ dưỡng tiện nghi, đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch, thân thiện môi trường và bảo tồn hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc. Du khách có thể tham quan cảnh quan thiên nhiên, tìm hiểu về môi trường sinh thái và các giá trị đa dạng sinh học tại khu bảo tồn; tham gia các hoạt động như trekking, marathon băng rừng, khám phá các hang động, đi bè ngắm cảnh suối, tắm thác…

Du khách còn có cơ hội trải nghiệm thực tế đời sống của đồng bào dân tộc Thái, Mường tại địa phương. Họ có thể tìm hiểu phong tục, tập quán, theo chân người dân lên núi đào măng, hái rau rừng, cùng nấu ăn và thưởng thức các giá trị văn hóa ẩm thực; tham quan, trải nghiệm mua sắm sản phẩm thổ cẩm của thôn Lặn Ngoài, tham gia chợ phiên phố Đoàn…

Tiềm năng phát triển cây Sachi
Tiềm năng phát triển cây Sachi

Để phát triển du lịch, người dân bản địa đã được tiếp cận với những kiến thức về du lịch, được tham gia các lớp tập huấn, đào tạo kỹ năng và nghiệp vụ du lịch cộng đồng, ứng xử văn minh trong du lịch, chế biến món ăn, phục vụ bàn và pha chế đồ uống… Các đội văn nghệ, câu lạc bộ văn nghệ quần chúng ở các thôn, bản được thành lập, tạo điều kiện để người dân bản địa giới thiệu văn hóa của mình cho du khách.

Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Doãn Anh: Chủ động di dời dân vùng trũng thấp đến nơi an toàn khi nước sông Chu dâng cao
Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Doãn Anh: Chủ động di dời dân vùng trũng thấp đến nơi an toàn khi nước sông Chu dâng cao

Sau nhiều nỗ lực, một số bản làng tại Pù Luông đã trở thành điểm sáng trong phát triển du lịch cộng đồng của tỉnh. Hiện nay, Pù Luông có nhiều cơ sở lưu trú cao cấp, được gắn sao, và du lịch đã giúp người dân bản địa cải thiện đời sống.

Một trong những hộ gia đình điển hình là gia đình anh Lò Văn Chỏng, thôn Báng, xã Pù Luông. Anh Chỏng đã khởi nghiệp với du lịch cộng đồng và xây dựng homestay Thuận Thùy, mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Với những nỗ lực và kết quả đạt được, Pù Luông đang trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách yêu thích du lịch sinh thái cộng đồng và muốn trải nghiệm cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Khu vực này không chỉ mang lại trải nghiệm mới mẻ cho du khách mà còn đóng góp vào sự phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa của địa phương.

]]>
Món Kính Coong đặc sản Sơn La, mê hoặc thực khách bởi hương vị độc đáo từ thịt thối https://tamnhindoanhnhan.com/mon-kinh-coong-dac-san-son-la-me-hoac-thuc-khach-boi-huong-vi-doc-dao-tu-thit-thoi/ Wed, 10 Sep 2025 21:14:37 +0000 https://tamnhindoanhnhan.com/mon-kinh-coong-dac-san-son-la-me-hoac-thuc-khach-boi-huong-vi-doc-dao-tu-thit-thoi/

Món Kính Coong, hay còn được gọi là canh thịt thối, là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa và ẩm thực của người Khơ Mú tại Sơn La. Món ăn này không chỉ thể hiện sự phong phú của ẩm thực địa phương mà còn mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc trong cộng đồng người Khơ Mú. Đặc biệt, trong các dịp lễ trọng như cưới hỏi, Tết Nguyên Đán hay đãi khách quý, Kính Coong luôn được ưa chuộng và trình bày như một món ăn không thể thiếu.

Món ăn bốc mùi hôi thối amp;#34;lúc nhúc dòiamp;#34; khiến nhiều người amp;#34;chạy mất dépamp;#34; là đặc sản Sơn La, chỉ dành đãi khách quý - 2
Món ăn bốc mùi hôi thối amp;#34;lúc nhúc dòiamp;#34; khiến nhiều người amp;#34;chạy mất dépamp;#34; là đặc sản Sơn La, chỉ dành đãi khách quý – 2

Khác biệt hoàn toàn với những món ăn thông thường, Kính Coong được chế biến từ những miếng thịt gia súc đã qua quá trình phân hủy tự nhiên, mang theo mùi vị đặc trưng mà người Khơ Mú lại xem là tinh hoa. Đối với họ, thịt càng “thối” càng đạt chuẩn, và sự hiện diện của giòi trong quá trình này lại được coi là dấu hiệu của một nguyên liệu lý tưởng, góp phần tạo nên hương vị đặc biệt khó quên.

Theo cách gọi của người Khơ Mú, “Kính” có nghĩa là một loại canh tổng hợp, trong khi “Coong” là tên gọi chung cho các loại gia vị, rau củ quả được sử dụng để nấu cùng thịt thối. Do đó, Kính Coong có thể hiểu nôm na là một món canh thập cẩm được chế biến từ thịt đã phân hủy. Hương vị của Kính Coong ban đầu có thể gây khó chịu cho những người lần đầu nếm thử bởi mùi hôi nồng đặc trưng. Tuy nhiên, theo chia sẻ của người bản địa, một khi đã làm quen, món ăn này lại có sức gây nghiện kỳ lạ, khiến thực khách muốn quay lại thưởng thức lần nữa.

Để tạo ra nguyên liệu cho món Kính Coong, người Khơ Mú thực hiện một quy trình độc đáo. Các phần thịt dễ phân hủy nhất như nội tạng, thịt bụng của trâu, bò, lợn sẽ được treo trên gác bếp – nơi có nhiệt độ và độ ẩm thích hợp. Hàng ngày, thịt được vẩy nước để duy trì độ ẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho ruồi nhặng bay đến đẻ trứng và mang theo các vi sinh vật tự nhiên, đẩy nhanh quá trình phân hủy. Điều đáng chú ý là thịt không hề được tẩm ướp muối hay bất kỳ loại gia vị nào trong suốt giai đoạn này. Chúng được để tự nhiên phân hủy cho đến khi bốc mùi và có nhiều giòi, lúc đó mới được xem là đạt yêu cầu để đưa vào chế biến.

Quá trình chế biến món Kính Coong cũng không kém phần công phu. Thịt thối sau khi được chuẩn bị sẽ được hầm nát nhừ cùng với một lượng nước thích hợp. Tiếp theo, các loại rau củ quả địa phương và hỗn hợp gia vị phong phú sẽ được thêm vào. Các loại gia vị này bao gồm tiêu rừng, tỏi, gừng, lá cây rừng, ớt, sả, và một chút bột gạo để tạo độ sánh cho món canh. Không chỉ mang lại hương vị thơm ngon, sự kết hợp của các loại gia vị tự nhiên này còn được người Khơ Mú tin rằng có tác dụng hỗ trợ sức khỏe, đặc biệt là trong việc ổn định hệ tiêu hóa, gan và mật.

Món ăn bốc mùi hôi thối amp;#34;lúc nhúc dòiamp;#34; khiến nhiều người amp;#34;chạy mất dépamp;#34; là đặc sản Sơn La, chỉ dành đãi khách quý - 3
Món ăn bốc mùi hôi thối amp;#34;lúc nhúc dòiamp;#34; khiến nhiều người amp;#34;chạy mất dépamp;#34; là đặc sản Sơn La, chỉ dành đãi khách quý – 3

Trước đây, nguồn nguyên liệu chính cho món Kính Coong thường là từ những thành phẩm săn bắt được của người Khơ Mú trong rừng, bao gồm lợn rừng, trâu, bò, hoẵng. Thậm chí, chuột – loài vật dễ gây mùi thối nhất – cũng là một trong những nguyên liệu được ưa chuộng. Có những trường hợp, khi gặp một con vật đã chết lâu trong rừng, người Khơ Mú vẫn mang về để chế biến món ăn truyền thống này. Ngày nay, do sự khan hiếm của thú rừng, người Khơ Mú đã chuyển sang sử dụng chính gia súc, gia cầm nuôi trong nhà để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho món Kính Coong, nhưng vẫn duy trì được hương vị và ý nghĩa văn hóa của món ăn.

Kính Coong không chỉ là một món ăn đơn thuần mà còn mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc trong cộng đồng người Khơ Mú. Đây là món ăn không thể thiếu trong các bữa tiệc đãi khách, thể hiện sự hiếu khách và lòng trân trọng của gia chủ. Theo quan niệm của người Khơ Mú, nếu trên bàn ăn thiếu món Kính Coong, đó được coi là một sự thất lễ đối với khách quý. Tương tự, nếu khách từ chối món ăn này vì bất kỳ lý do gì, điều đó cũng được xem là phụ lòng tốt của gia chủ. Chính vì vậy, khi có dịp đặt chân đến Sơn La và khám phá văn hóa của đồng bào Khơ Mú, du khách nên mạnh dạn thử trải nghiệm món ăn độc đáo này để hiểu hơn về một nét văn hóa ẩm thực đặc sắc và giàu bản sắc.

]]>
Tấm dồ đôi – món quà đặc sắc trong lễ cưới của người Ve ở Đà Nẵng https://tamnhindoanhnhan.com/tam-do-doi-mon-qua-dac-sac-trong-le-cuoi-cua-nguoi-ve-o-da-nang/ Fri, 05 Sep 2025 07:10:53 +0000 https://tamnhindoanhnhan.com/tam-do-doi-mon-qua-dac-sac-trong-le-cuoi-cua-nguoi-ve-o-da-nang/

Ở thành phố Đà Nẵng, người Ve – một nhóm thuộc dân tộc Giẻ Triêng vẫn lưu giữ một tập tục cưới hỏi đặc sắc: nhà gái tặng tấm dồ đôi cho nhà trai trong lễ cưới. Tấm dồ đôi do chính tay cô gái dệt phải mất từ 3-4 năm trước khi bước vào hôn nhân mới hoàn thành. Vì vậy, tấm dồ đôi không chỉ mang thông điệp về sự khéo léo mà còn là tấm lòng thủy chung, nhân văn của người phụ nữ Ve.

Hai mảnh thổ cẩm tượng trưng cho hai cuộc đời, giờ khép lại thành một mái ấm.
Hai mảnh thổ cẩm tượng trưng cho hai cuộc đời, giờ khép lại thành một mái ấm.

Ở xã Đắc Pring, nơi tập trung đông người Ve sinh sống, nhiều phong tục truyền thống vẫn được gìn giữ nguyên vẹn. Người Ve sống bằng nghề làm rẫy, săn bắt, đánh cá. Họ theo chế độ song hệ: con trai theo họ cha, con gái theo họ mẹ. Họ có quan niệm rất văn minh rằng con cái, bất kể giới tính nào đều quý giá.

“Tiếp tục phát huy vai trò là cầu nối vững chắc giữa Chính phủ và các tổ chức tôn giáo”
“Tiếp tục phát huy vai trò là cầu nối vững chắc giữa Chính phủ và các tổ chức tôn giáo”

Trước khi lập gia đình, chàng trai người Ve phải cà răng và không còn ngủ ở nhà làng – đánh dấu bước trưởng thành. Còn người con gái, trước khi lấy chồng sẽ xỏ tai, đeo trang sức. Đó là những nghi thức tiền hôn nhân mang tính biểu trưng của cộng đồng người Ve ở miền núi Đà Nẵng.

Nhà gái với chiếc nia và tấm dồ đôi tặng nhà trai.
Nhà gái với chiếc nia và tấm dồ đôi tặng nhà trai.

Trong chuyện tình cảm, người Ve bày tỏ tình yêu bằng nghệ thuật dân gian: chàng trai dùng tiếng khèn, còn cô gái đáp lại bằng lời ca. Khi cả hai thuận ý, nhà trai sẽ nhờ mai mối đến thưa chuyện. Sau đó, hai gia đình tổ chức lễ ‘Ka để trăng’ để chính thức bàn chuyện cưới hỏi. Kể từ đó, đôi trẻ sẽ thay phiên sang ăn cơm nhà nhau mỗi ngày trong vòng vài tháng đến một năm, trước khi tổ chức lễ cưới chính thức – gọi là Lễ Bế chia.

Người mẹ của chú rể, tự tay cầm tấm dồ đôi khoác lên vai cô con dâu với ước nguyện cho đôi vợ chồng trẻ trăm năm hạnh phúc.
Người mẹ của chú rể, tự tay cầm tấm dồ đôi khoác lên vai cô con dâu với ước nguyện cho đôi vợ chồng trẻ trăm năm hạnh phúc.

Trong lễ cưới người Ve, lễ vật quan trọng nhất là tấm dồ đôi (rơ moong) do nhà gái mang sang. Tấm dồ đôi là một sản phẩm thổ cẩm dày, đẹp, kích thước khoảng 3 mét dài, 2 mét rộng, được ghép từ hai mảnh vải do chính cô gái dệt thủ công. Việc hoàn thành một tấm dồ đôi có thể mất từ 3 đến 4 năm – là cả một quá trình kỳ công đòi hỏi sự nhẫn nại, khéo léo và tình cảm sâu sắc.

Bà Pơ Loong Thị Liêm (64 tuổi, xã Đắc Pring) chia sẻ: ‘Thổ cẩm của phụ nữ Ve được làm bằng nguyên liệu tự nhiên từ cây, cỏ, lá, hoa của rừng núi, màu nhuộm từ lá cây, nghệ, bồ kết, tro bếp… Đến nay, chúng tôi còn lưu giữ truyền thống trên từng tấm vải thổ cẩm với các dải hoa văn trang trí kết hợp giữa màu đỏ và màu trắng, giữa màu chàm với màu vàng. Mỗi hoa văn trên vải đều kể lại câu chuyện về thần núi, thần suối, tổ tiên… ‘.

Già làng Pơ Loong Tý (78 tuổi) kể chuyện, theo truyền thống, tấm dồ đôi không chỉ để người Ve dùng đắp ấm chống lại cái rét của những cơn mưa rừng đằng đẵng mà còn được xem là món quà sính lễ trao tặng trong đám cưới. Với người Ve, đám cưới không có tấm dồ đôi thì không gọi là đám cưới. Nhà trai mang chiếc gùi thể hiện tài đan lát của chàng rể, còn nhà gái tặng tấm dồ đôi do chính cô dâu dệt, thể hiện tấm lòng son sắt, thuỷ chung. Tấm dồ đôi sau đó được mẹ chú rể khoác lên vai cô dâu như lời chúc phúc cho hôn nhân hạnh phúc bền lâu.

Số lượng tấm dồ đôi nhà gái chuẩn bị phụ thuộc vào khả năng và sự cần mẫn của cô gái. Tuy nhiên, dù chỉ một tấm, nó cũng mang đầy đủ ý nghĩa biểu trưng: hai mảnh vải tượng trưng cho hai cuộc đời, giờ khép lại thành một mái ấm. Họ sẽ cùng chung sống, sinh con đẻ cái, và được hai họ chúc phúc.

Ngày nay, dù cuộc sống đã có nhiều đổi thay, nhiều gia đình người Ve vẫn duy trì nét đẹp này như một phần hồn cốt văn hóa. Tấm dồ đôi không chỉ là hồi môn, mà là sự kết tinh của công sức, đạo lý, tinh thần nhân văn, điều khiến đám cưới người Ve trở nên đặc biệt, giàu bản sắc và đáng trân quý giữa đại ngàn Trường Sơn.

Khi hội nhập văn hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở miền núi Đà Nẵng, tấm dồ đôi của người Ve không chỉ là minh chứng của tình yêu đôi lứa, mà còn là cầu nối giữa truyền thống và hiện đại. Trong không gian đậm chất núi rừng ấy, từng sợi chỉ, từng họa tiết trên tấm dồ đôi như tiếp tục kể câu chuyện của bản làng – bản tình ca bền bỉ giữa đại ngàn.

]]>