Nghiên cứu – Tamnhindoanhnhan.com https://tamnhindoanhnhan.com Nơi hội tụ giá trị – bản lĩnh – tầm nhìn dẫn đầu. Nơi chia sẻ tri thức, chiến lược kinh doanh, tư duy lãnh đạo, đổi mới sáng tạo và phong cách sống doanh nhân. Sat, 20 Sep 2025 10:13:32 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/tamnhindoanhnhan.svg Nghiên cứu – Tamnhindoanhnhan.com https://tamnhindoanhnhan.com 32 32 Não bộ phản ứng thế nào khi nhìn người khác giới https://tamnhindoanhnhan.com/nao-bo-phan-ung-the-nao-khi-nhin-nguoi-khac-gioi/ Sat, 20 Sep 2025 10:13:31 +0000 https://tamnhindoanhnhan.com/nao-bo-phan-ung-the-nao-khi-nhin-nguoi-khac-gioi/

Các nhà nghiên cứu đã xác định được các mẫu hình視覺 mà con người sử dụng khi đánh giá cơ thể, cho thấy sự chú ý tập trung nhiều nhất vào ngực và thân mình. Nghiên cứu này, được công bố trong Behavioral Sciences, sử dụng công nghệ theo dõi mắt để chỉ ra rằng các mẫu nhìn này bị ảnh hưởng bởi chỉ số khối cơ thể và đánh giá cụ thể đang được thực hiện.

Trước đây, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người hình thành ấn tượng nhanh chóng và nhất quán dựa trên ngoại hình, bao gồm hình dạng và kích thước cơ thể. Tuy nhiên, vẫn còn tương đối ít được biết về nơi con người nhìn trong quá trình đánh giá này. Hầu hết các nghiên cứu trước đây đều tập trung vào sự hấp dẫn, thường sử dụng ảnh hoặc mô hình giới tính đơn.

Đội ngũ nghiên cứu này đã đặt mục tiêu khám phá cách chỉ số khối cơ thể ảnh hưởng không chỉ đến đánh giá của con người về sự hấp dẫn, sức khỏe và tuổi trẻ, mà còn cả mẫu hình視覺 của họ khi đưa ra những đánh giá này. Tác giả nghiên cứu Edward Morrison, một giảng viên cao cấp tại Đại học Portsmouth, cho biết: “Nghiên cứu này được thực hiện với sinh viên đại học và tác giả cùng nghiên cứu, Marianne Lanigan. Cô ấy quan tâm đến việc sử dụng theo dõi mắt cho dự án nghiên cứu đại học của mình, và chúng tôi đã kết hợp điều này với sự quan tâm của tôi trong nhận thức xã hội – đánh giá chúng tôi đưa ra về người khác.”

Để điều tra vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã tuyển dụng 32 người tham gia, chủ yếu là sinh viên tâm lý học đại học, với độ tuổi trung bình khoảng 20 tuổi. Hầu hết đều là nữ và xác định là dị tính hoặc song tính. Nghiên cứu được thực hiện trong một môi trường phòng thí nghiệm được kiểm soát, nơi những người tham gia xem hình ảnh kỹ thuật số của các mô hình nam và nữ khác nhau có chỉ số khối cơ thể một cách có hệ thống.

Các mô hình được tạo ra bằng công cụ trực tuyến, được tiêu chuẩn hóa về chiều cao nhưng khác nhau về trọng lượng cơ thể để mô phỏng các hạng mục gầy, cân nặng thấp, cân nặng cao, thừa cân và béo phì. Những người tham gia được yêu cầu đánh giá mỗi mô hình trên ba chiều – sự hấp dẫn, sức khỏe và tuổi trẻ, sử dụng thang điểm Likert sáu điểm.

Trong khi thực hiện điều này, thiết bị theo dõi mắt đã ghi lại nơi và thời gian họ nhìn vào các bộ phận khác nhau của cơ thể, bao gồm đầu, ngực, eo, đùi và chân dưới. Mỗi hình ảnh được hiển thị trong năm giây, và những người tham gia hoàn thành một loạt các thử nghiệm, đầu tiên là đánh giá tất cả năm mô hình nữ về sự hấp dẫn, sau đó là sức khỏe và tuổi trẻ, và lặp lại quy trình tương tự cho các mô hình nam.

Các nhà nghiên cứu đã phân tích cả dữ liệu theo dõi mắt và điểm đánh giá. Họ đã tìm thấy rằng sự chú ý視覺 không được phân bố đều trên cơ thể. Ngực và eo nhận được nhiều sự chú ý nhất và thời gian xem lâu nhất, trong khi đùi và chân dưới nhận được ít nhất. Thú vị là, những người tham gia có xu hướng nhìn lâu hơn và thường xuyên hơn vào các mô hình nam hơn là mô hình nữ.

Mẫu hình này có thể đã bị ảnh hưởng bởi sự thống trị của phụ nữ dị tính trong nhóm tham gia. Bộ phận cơ thể nhận được nhiều sự chú ý đã thay đổi theo kích thước cơ thể. Ở chỉ số khối cơ thể thấp hơn, con người dành nhiều thời gian hơn để nhìn vào eo, trong khi ở trọng lượng cao hơn, cái nhìn của họ chuyển hướng nhiều hơn đến ngực.

Sự chú ý đến đầu tăng lên khi chỉ số khối cơ thể tăng lên, có thể phản ánh mối liên hệ giữa cân nặng và tuổi tác. Những thay đổi này xảy ra ngay cả khi những người tham gia không được yêu cầu một cách có ý thức để đánh giá các vùng cơ thể cụ thể.

Các loại đánh giá xã hội khác nhau cũng tinh vi ảnh hưởng đến hành vi nhìn. Khi những người tham gia đánh giá tuổi trẻ, họ có xu hướng nhìn nhiều hơn vào đầu, so với khi họ đánh giá sự hấp dẫn hoặc sức khỏe. Điều này có ý nghĩa khi khuôn mặt mang lại nhiều tín hiệu視覺 liên quan đến tuổi tác.

Điểm đánh giá cho sức khỏe dẫn đến tập trung nhiều hơn vào ngực và phần eo, khu vực liên quan đến phân phối mỡ nhìn thấy và cơ bắp. Khi nói đến điểm đánh giá thực tế, những người tham gia đánh giá mức độ cân nặng khỏe mạnh thấp nhất là hấp dẫn và khỏe mạnh nhất.

Điểm đánh giá tuổi trẻ, trái lại, đạt đỉnh cao nhất đối với cơ thể nhẹ nhất – những cơ thể được phân loại là gầy. Điều này có thể phản ánh mối liên hệ văn hóa và tiến hóa giữa sự gầy, tuổi trẻ và tiềm năng sinh sản.

Cũng có một số khác biệt trong cách những người tham gia đánh giá cơ thể nam và nữ. Mô hình nam gầy được đánh giá thấp hơn đáng kể về sự hấp dẫn và sức khỏe so với mô hình nữ gầy. Điều này có thể phản ánh cách cơ bắp thấp, thường đi kèm với cân nặng thấp, bị nhìn nhận tiêu cực ở nam giới.

Đối với mô hình nữ, ngay cả những mô hình gần ngưỡng cân nặng khỏe mạnh vẫn được đánh giá cao về sự hấp dẫn và tuổi trẻ. Điều này phù hợp với lý tưởng văn hóa có xu hướng ưu tiên sự gầy ở phụ nữมาก hơn ở nam giới.

Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy các tương tác giữa giới tính của mô hình, loại đánh giá và chỉ số khối cơ thể. Ví dụ, mô hình nam khỏe mạnh nhất có chỉ số khối cơ thể cao hơn một chút so với mô hình hấp dẫn nhất, cho thấy rằng những người tham gia có thể liên kết một số cơ bắp với sức khỏe.

Điều này trái ngược với các nghiên cứu trước đây cho thấy con người thường thích cơ thể gầy hơn ngay cả khi chúng trông kém khỏe mạnh. Sự khác biệt có thể do sự khác biệt văn hóa, vì các nghiên cứu trước đây cho thấy mô hình này sử dụng mẫu từ dân số châu Á, trong khi nghiên cứu hiện tại chủ yếu liên quan đến người tham gia gốc châu Âu.

Mặc dù nghiên cứu cung cấp cái nhìn sâu sắc mới về cách con người sử dụng tín hiệu視覺 để đánh giá người khác, nhưng nó vẫn có một số hạn chế. Kích thước mẫu nhỏ và thiên vị về giới tính và độ tuổi, điều này có thể hạn chế khả năng áp dụng của kết quả cho các dân số rộng lớn hơn.

Kết quả có thể khác nếu chúng tôi có đủ người xem nam để so sánh, vì các nghiên cứu khác cho thấy. Các kích thích của chúng tôi cũng là mô hình được tạo ra bởi máy tính mà không có khuôn mặt hoặc quần áo (nhưng không có cơ quan sinh dục). Điều này là để chúng tôi có thể kiểm soát kích thước cơ thể một cách thử nghiệm trong khi giữ mọi thứ khác không đổi.

Tuy nhiên, chúng tôi có thể nhìn vào mô hình được tạo ra bởi máy tính khác với người thực. Các nhà nghiên cứu đề xuất rằng các nghiên cứu trong tương lai nên bao gồm hỗn hợp người tham gia cân bằng hơn về giới tính và độ tuổi. Họ cũng đề xuất khám phá cách hình ảnh cơ thể và kinh nghiệm của mọi người có thể định hình đánh giá của họ về người khác.

Các nghiên cứu trong môi trường tự nhiên hơn, chẳng hạn như sử dụng thiết bị theo dõi mắt có thể đeo trong khi quan sát mọi người ở nơi công cộng, cũng có thể giúp xác nhận liệu các mẫu quan sát trong phòng thí nghiệm có phản ánh hành vi trong thế giới thực hay không.

]]>
Chuột mang thai tiếp xúc với thành phần cơ bản trong nước vape thì thai nhi bị nhỏ sọ https://tamnhindoanhnhan.com/chuot-mang-thai-tiep-xuc-voi-thanh-phan-co-ban-trong-nuoc-vape-thi-thai-nhi-bi-nho-so/ Sat, 16 Aug 2025 22:41:24 +0000 https://tamnhindoanhnhan.com/chuot-mang-thai-tiep-xuc-voi-thanh-phan-co-ban-trong-nuoc-vape-thi-thai-nhi-bi-nho-so/

Một nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra rằng những con chuột mang thai tiếp xúc với thành phần cơ bản của hầu hết các loại nước vape có thể sinh ra những chú chuột con với hộp sọ nhỏ hơn và hẹp hơn. Điều này gây ra nhiều lo ngại về việc sử dụng vape, đặc biệt là trong thời kỳ mang thai.

Most vape fluids contain a mixture of propylene glycol and glycerol as a carrier. (Artjom Kissler/Getty Images)
Most vape fluids contain a mixture of propylene glycol and glycerol as a carrier. (Artjom Kissler/Getty Images)

Nghiên cứu, do nhà giải phẫu James Cray từ Trường Cao đẳng Y tế Đại học Tiểu bang Ohio dẫn đầu, tập trung vào việc xác định cơ sở cho các tác động của chất mang lên cơ thể. Mục tiêu của nghiên cứu là tạo ra một nền tảng để các nhà nghiên cứu trong tương lai có thể thêm các thành phần khác của nước vape, như nicotine, vào chất mang này và xác định được tác động của từng chất.

Mice who were exposed to the 30/70 mixture had noticeably shorter noses. (Richlak et al., PLOS One, 2025)
Mice who were exposed to the 30/70 mixture had noticeably shorter noses. (Richlak et al., PLOS One, 2025)

Các nhà nghiên cứu đã chuẩn bị hai công thức cơ bản của nước vape plain từ propylene glycol và glycerol. Một công thức chứa hỗn hợp 50/50 của propylene glycol và glycerol, trong khi công thức khác có tỷ lệ 30/70. Những con chuột mang thai đã được tiếp xúc với vape hits của một trong hai công thức hoặc không khí tươi như một biện pháp kiểm soát, với tỷ lệ một lần mỗi phút trong bốn giờ mỗi ngày, trong suốt thai kỳ khoảng 20 tuần của chúng.

Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng chuột con của những con chuột mẹ tiếp xúc với chất lỏng 30/70 trong khi mang thai có hộp sọ và khuôn mặt nhỏ hơn đáng kể, đo cả về chiều rộng và chiều dài, và mũi ngắn hơn. Ngoài ra, nhóm tiếp xúc với hỗn hợp 30/70 cũng có trọng lượng cơ thể thấp hơn đáng kể so với các nhóm khác.

Việc xác định tác động sức khỏe của vape rất phức tạp vì lý do đạo đức, không thể thực hiện loại thử nghiệm này trực tiếp trên người. Các thí nghiệm trên mô hình động vật được coi là đạo đức và tiết kiệm thời gian hơn, nhưng kết quả của chúng không phải lúc nào cũng có thể ngoại suy ra sức khỏe con người.

Sự thiếu hụt quy định thị trường có nghĩa là nội dung của mỗi vape có thể thay đổi rộng rãi. Việc cách ly các tác động của từng thành phần có thể giúp người dân đưa ra quyết định sáng suốt hơn khi mua vape. Điều này đặc biệt quan trọng khi vape đã được chứng minh, trong một số trường hợp, có một số lợi ích y tế, như giúp người dân cai thuốc lá.

Nhà nghiên cứu James Cray cho biết: “Đây là một nghiên cứu nhỏ nói về khả năng vape không chứa nicotine không an toàn. Và đó là một dấu hiệu cho thấy chúng ta có lẽ nên nghiên cứu các sản phẩm không chứa nicotine cũng như nghiên cứu các sản phẩm có chứa nicotine”. Nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí PLOS One.

]]>
Não phản ứng thế nào khi mất thị lực do tổn thương tế bào trong mắt https://tamnhindoanhnhan.com/nao-phan-ung-the-nao-khi-mat-thi-luc-do-ton-thuong-te-bao-trong-mat/ Wed, 06 Aug 2025 22:20:02 +0000 https://tamnhindoanhnhan.com/nao-phan-ung-the-nao-khi-mat-thi-luc-do-ton-thuong-te-bao-trong-mat/

Khi các bệnh lý hoặc chấn thương ở mắt xảy ra, các tế bào trung tính – một thành phần quan trọng của hệ miễn dịch trong máu – thường là những người lính bảo vệ đầu tiên. Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây thực hiện bởi các nhà khoa học tại Viện Mắt Flaum và Viện Neuroscience Del Monte thuộc Đại học Rochester đã chỉ ra rằng võng mạc có một phản ứng khác biệt so với nhiều loại mô khác trong cơ thể. Khi các tế bào cảm quang trong võng mạc bị tổn thương, các tế bào miễn dịch của não, được gọi là microglia, sẽ được kích hoạt để phản ứng. Điều đáng chú ý là trong tình huống này, các tế bào trung tính không được huy động để hỗ trợ quá trình sửa chữa tổn thương, mặc dù chúng hiện diện và di chuyển qua các mạch máu gần đó.

Phát hiện này mang lại ý nghĩa quan trọng đối với hàng triệu người Mỹ đang phải đối mặt với tình trạng mất thị lực do mất tế bào cảm quang. Việc hiểu rõ mối quan hệ giữa hai quần thể tế bào miễn dịch này là chìa khóa cần thiết để xây dựng các liệu pháp mới trong tương lai. Các nhà nghiên cứu tin rằng, bằng cách hiểu được sự phức tạp của các tương tác giữa tế bào miễn dịch, họ có thể phát triển các phương pháp điều trị hiệu quả hơn cho các bệnh lý về mắt. Để đạt được điều này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng công nghệ chụp ảnh quang học thích nghi – một loại camera tiên tiến được phát triển bởi Đại học Rochester. Công nghệ này cho phép chụp ảnh các tế bào thần kinh và miễn dịch đơn lẻ bên trong mắt sống, giúp các nhà nghiên cứu có thể quan sát chi tiết các hoạt động của tế bào trong võng mạc.

Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã tập trung vào võng mạc của chuột bị tổn thương tế bào cảm quang. Qua quá trình quan sát, họ đã phát hiện ra rằng dù cả tế bào trung tính và microglia đều có mặt trong võng mạc, nhưng chỉ có các tế bào microglia phản ứng với chấn thương của tế bào cảm quang. Đáng chú ý hơn, các tế bào microglia này không gọi các tế bào trung tính đến hỗ trợ quá trình sửa chữa tổn thương tế bào cảm quang. Từ phát hiện này, các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của một cơ chế bảo vệ đặc biệt trong võng mạc khi bị chấn thương. Cơ chế này dường như ngăn chặn sự xâm nhập của các tế bào miễn dịch có khả năng gây hại hơn là có lợi, nhằm bảo vệ võng mạc khỏi các tổn thương thêm.

Nhìn chung, nghiên cứu này mở ra những hướng đi mới trong việc tìm hiểu và điều trị các bệnh lý về mắt liên quan đến tổn thương tế bào cảm quang. Việc áp dụng công nghệ chụp ảnh quang học thích nghi đã giúp nhóm nghiên cứu có được những thông tin quan trọng về phản ứng của tế bào miễn dịch trong võng mạc. Những phát hiện này có tiềm năng đóng góp vào sự phát triển của các liệu pháp nhắm vào việc bảo vệ và phục hồi thị lực cho những người bị ảnh hưởng.

]]>
Nuôi con trai trên 30 tuổi độc thân, mẹ chịu thiệt về sức khỏe tinh thần https://tamnhindoanhnhan.com/nuoi-con-trai-tren-30-tuoi-doc-than-me-chiu-thiet-ve-suc-khoe-tinh-than/ Sat, 02 Aug 2025 13:56:07 +0000 https://tamnhindoanhnhan.com/nuoi-con-trai-tren-30-tuoi-doc-than-me-chiu-thiet-ve-suc-khoe-tinh-than/

Một nghiên cứu gần đây của Đại học Jaume I (Tây Ban Nha) đã chỉ ra rằng việc sống chung với con trai trên 30 tuổi nhưng độc thân có thể làm giảm mức độ hài lòng trong cuộc sống của các bà mẹ, từ đó ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của họ. Dữ liệu từ Khảo sát Tài chính hộ gia đình của Tây Ban Nha, một phần của Kế hoạch Thống kê quốc gia, đã được phân tích để đưa ra kết luận này. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Social Science & Medicine.

Sống với con trai trên 30 tuổi độc thân dễ khiến mẹ phát cáu - Ảnh 2.
Sống với con trai trên 30 tuổi độc thân dễ khiến mẹ phát cáu – Ảnh 2.

Nhóm nghiên cứu do tiến sĩ María José Gil-Moltó và tiến sĩ Arne Risa Hole từ Nhóm Kinh tế thực nghiệm và Tính toán (UJI) dẫn đầu, đã tập trung vào nhóm cha mẹ từ 50 đến 75 tuổi. Họ theo dõi mức độ hài lòng trong cuộc sống của các bậc phụ huynh qua các giai đoạn con cái rời nhà hoặc quay về sống chung.

Sống với con trai trên 30 tuổi độc thân dễ khiến mẹ phát cáu - Ảnh 3.
Sống với con trai trên 30 tuổi độc thân dễ khiến mẹ phát cáu – Ảnh 3.

Ở các nước châu Âu như Tây Ban Nha, hơn 40% người trưởng thành từ 25-34 tuổi vẫn sống cùng cha mẹ. Độ tuổi trung bình để rời khỏi nhà là khoảng 29,8. Ngoài ra, các yếu tố kinh tế, văn hóa gia đình truyền thống và sự phân công lao động chưa công bằng trong gia đình cũng là những nguyên nhân khiến nhiều người trẻ ở nhà lâu hơn.

Đáng chú ý, nghiên cứu chỉ ra rằng các bà mẹ sống chung với con trên 30 tuổi có mức độ hài lòng thấp hơn đáng kể. Điều này tương đương với việc sức khỏe của họ giảm từ mức ‘rất tốt’ xuống ‘tạm ổn’. Trong khi đó, không có sự sụt giảm tương tự được ghi nhận ở người cha, cho thấy gánh nặng chăm sóc trong gia đình vẫn chủ yếu đổ dồn lên vai người mẹ.

Nhóm nghiên cứu nhấn mạnh rằng trong bối cảnh quốc tế hiện nay, khi việc sống chung giữa cha mẹ và con cái trưởng thành ngày càng phổ biến do khủng hoảng tài chính và chi phí sinh hoạt tăng cao, cần nhận thức được rằng sự sống chung này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tinh thần của phụ huynh, đặc biệt là các bà mẹ.

Từ nghiên cứu này, nhóm tác giả đề xuất các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc tạo điều kiện tốt hơn cho thanh niên tự lập thông qua các chính sách hỗ trợ nhà ở, việc làm và tài chính phù hợp.

Tại Việt Nam, một quốc gia đề cao giá trị và vai trò gia đình, tình trạng người trẻ trên 30 tuổi, đặc biệt là nam giới sống chung với bố mẹ cũng không phải là hiếm. Áp lực từ giá nhà tăng cao, thị trường lao động cạnh tranh và kỳ vọng xã hội về việc ‘an cư trước khi lập nghiệp’ khiến nhiều người ngần ngại rời khỏi vòng tay gia đình.

Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng lại ở yếu tố kinh tế mà còn phản ánh những thay đổi trong cấu trúc gia đình, giá trị cá nhân và sự chuyển dịch của vai trò giới trong xã hội hiện đại. Đây không chỉ là câu chuyện của riêng Tây Ban Nha mà là xu hướng đang lan rộng và đặt ra nhiều câu hỏi cho chính sách nhà ở, phúc lợi và giáo dục giới trẻ tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Bên cạnh đó, một vấn đề khác liên quan đến sức khỏe tâm thần của trẻ vị thành niên tại Việt Nam cũng đáng được quan tâm. Áp lực học tập và sự kiểm soát quá nghiêm ngặt của cha mẹ đang khiến trẻ lo âu, trầm cảm, cảm giác bị cô lập và cô đơn. Theo nghiên cứu, có tới gần 22% trẻ vị thành niên tại Việt Nam đang gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần.

]]>